Nhiễm khuẩn huyết hay nhiễm trùng máu là một bệnh lý toàn thân nặng nề, đe dọa tính mạng của người bệnh. Biểu hiện lâm sàng của nhiễm khuẩn huyết khá đa dạng vì ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể. Bệnh nhiễm khuẩn huyết là gì? Các xét nghiệm sử dụng trong chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết là xét nghiệm nào? Hãy cùng tìm hiểu rõ hơn trong bài viết chuyên môn dưới đây:
Bệnh nhiễm khuẩn huyết là gì?
Nhiễm khuẩn huyết là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính,gây ra do vi khuẩn lưu hành trong máu gây ra các triệu chứng lâm sàng đa dạng, suy đa tạng, sốc nhiễm khuẩn với tỉ lệ tử vong rất cao (từ 20 – 50%), trong đó sốc nhiễm khuẩn là biểu hiện nặng của nhiễm khuẩn huyết.
Bệnh thường gặp ở các đối tượng người già, trẻ sơ sinh, trẻ đẻ non, người sử dụng thuốc ức chế miễn dịch như sử dụng corticoid kéo dài, các thuốc chống thải ghép, hoặc đang điều trị hóa chất và tia xạ. Người bệnh có bệnh lý mạn tính, như tiểu đường, HIV/AIDS, xơ gan, bệnh van tim và tim bẩm sinh, bệnh phổi mạn tính, suy thận mạn. Người bệnh sau cắt lách, nghiện rượu, có bệnh máu ác tính, giảm bạch cầu hạt. Người bệnh có đặt các thiết bị hoặc dụng cụ xâm nhập như đinh nội tủy, catheter, đặt ống nội khí quản…
Nguyên nhân gây bệnh thường do vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào máu hoặc từ các ổ nhiễm khuẩn ở mô và cơ quan như: da, mô mềm, cơ, xương khớp, hô hấp, tiêu hóa…. Các vi khuẩn thường gây nhiễm khuẩn huyết: Một số vi khuẩn Gram-âm gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp: Vi khuẩn Gram-âm đường ruột họ Enterobacteriacae: bao gồm Salmonella, Escherichia coli, Klebsiella, Serratia, và các vi khuẩn Enterobacter…; Pseudomonas aeruginosa; Burkholderia pseudomallei. Một số vi khuẩn Gram-dương gây bệnh thường gặp: Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, Streptococcus suis…. Các vi khuẩn kị khí thường gặp: Clostridium perfringens và Bacteroides fragilis.
- Các xét nghiệm thường được sử dụng trong chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết.
.JPG)
Chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết dựa trên triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán xác định dựa trên kết quả cấy máu.
- Xét nghiệm nuôi cấy: Cấy máu dương tính là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết. Tuy nhiên, cần lưu ý là kết quả cấy máu âm tính cũng không loại trừ được nhiễm khuẩn huyết, có khoảng 60% nhiễm khuẩn huyết có kết quả cấy máu âm tính. Nên cấy máu 02 lần (đối với cả nuôi cấy hiếu khí và kỵ khí) trước khi điều trị kháng sinh với thể tích máu tối thiểu là 10 ml/mẫu. Tuy nhiên không vì thế mà việc chỉ định kháng sinh bị trì hoãn ở những trường hợp bệnh nặng. Trong trường hợp người bệnh đã được sử dụng kháng sinh điều trị, muốn lấy máu làm xét nghiệm cấy máu thì kháng sinh cần ngưng sử dụng trong ít nhất 24 giờ. Nếu lấy 2 mẫu máu đồng thời thì cần lấy ở 2 vị trí khác nhau. Trong trường hợp có catheter mạch máu đã đặt quá 48 giờ, cần lấy ít nhất một mẫu bệnh phẩm qua catheter này. Bệnh phẩm máu lấy làm xét nghiệm là máu tĩnh mạch, quá trình lấy bệnh phẩm cần đảm bảo vô trùng tuyệt đối để tránh vấy bẩn vi khuẩn từ môi trường hoặc các vật dụng xung quanh. Việc lấy đủ thể tích máu cần thiết có vai trò làm tăng tỷ lệ phát hiện vi sinh vật gây bệnh. Ngoài máu, một trường hợp nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết cần được lấy bệnh phẩm từ các ổ nhiễm khuẩn tiên phát như dịch hô hấp, mủ, nước tiểu để làm xét nghiệm tìm vi khuẩn. Kết quả cấy máu và cấy bệnh phẩm cùng dương tính với một tác nhân gây bệnh càng làm tăng tính chính xác của xét nghiệm. Xét nghiệm cấy máu ngoài việc giúp định danh được vi sinh vật gây bệnh còn hỗ trợ thực hiện xét nghiệm kháng sinh đồ, tìm ra được loại kháng sinh mà vi khuẩn nhạy cảm nên giúp tăng hiệu quả điều trị.
.jpg)
Hình ảnh vi khuẩn trên các môi trường nuôi cấy
- Xét nghiệm Proccalcitonin. Procalcitonin (PCT) là một xét nghiệm được sử dụng để chẩn đoán và theo dõi tình trạng viêm do nhiễm khuẩn. So với các marker khác, PCT có tính đặc hiệu cao khi đáp ứng với nhiễm khuẩn toàn thân nặng. Trong nhiễm khuẩn, nồng độ PCT sẽ gia tăng sau khoảng 2 giờ. Giá trị nồng độ PCT được khuyến cáo theo Hiệp hội nhiễm khuẩn Đức năm 2006 (xuất bản các hướng dẫn cho chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn) như sau:
- Giá trị bình thường: PCT < 0,05 ng/ml.
- PCT < 0,10ng/ml: Không chỉ định dùng kháng sinh.
- PCT < 0,25ng/ml: Không khuyến cáo dùng kháng sinh, nếu trị liệu giảm xuống mức này thì tiếp tục dùng cho hiệu quả.
- PCT > 0,25ng/ml: Khuyến cáo và cân nhắc sử dụng kháng sinh.
- PCT > 0,50 ng/ml: Chỉ định kháng sinh là bắt buộc.
- PCT 0,50 - 2,0 (ng/ml): Nhiễm khuẩn do đáp ứng viêm hệ thống, nguyên nhân có thể là chấn thương, phẫu thuật sau chấn thương, sốc tim...
- PCT 2,0 - 10 (ng/ml): Đáp ứng viêm hệ thống nghiêm trọng (SIRS), nguyên nhân bởi nhiễm trùng hệ thống và nhiễm khuẩn huyết, chưa có suy đa tạng.
- PCT > 10 ng/ml: Đáp ứng viêm hệ thống sâu do nhiễm khuẩn huyết nghiêm trọng hoặc sốc nhiễm khuẩn.
- Xét nghiệm Protein phản ứng C hay C-reactive protein (CRP) là chất chỉ điểm (marker) của giai đoạn cấp. Định lượng nồng độ CRP trong máu giúp chẩn đoán và theo dõi bệnh lý liên quan đến quá trình viêm nhiễm và tổn thương mô. Trong nhiễm khuẩn huyết protein phản ứng C (CRP) thường > 150 mg/L.
- Xét nghiệm Công thức máu: Số lượng bạch cầu máu ngoại vi > 12 G/l hoặc < 4 G/l hoặc tỉ lệ bạch cầu non > 10%, giảm tiểu cầu (< 100 G/L),
- Xét nghiệm đông máu: Rối loạn đông máu (INR > 1.5 hoặc aPTT > 60 giây).
- Các xét nghiệm khác: Giảm oxy máu động mạch: PaO2/FIO2 < 300, creatinin tăng, tăng bilirubin máu, tăng men gan. Đánh giá tổn thương cơ quan theo vị trí nhiễm khuẩn khởi điểm như xét nghiệm dịch não tủy, tổng phân tích nước tiểu, X - quang ngực, siêu âm…
Để đảm bảo tính chính xác và tin cậy của kết quả, các xét nghiệm này cần được thực hiện trong các phòng xét nghiệm đảm bảo tiêu chuẩn. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang có hệ thống các khoa xét nghiệm với đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đạt chuẩn, tiên tiến, hiện đại, nhân viên y tế có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm. Do vậy, hệ thống các khoa xét nghiệm của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang đảm bảo thực hiện các xét nghiệm trên đúng quy trình, mang lại kết quả nhanh chóng, chính xác.
Người viết: Ths.Bs: Phạm Thị Ánh Tuyết - Trưởng khoa Hóa Sinh - Vi Sinh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang.